ĐI TÌM ÁNH SÁNG

(Gr 31,7-9; Hr 5,1-6; Mc 10,46-52)

Tu sĩ Micae Nguyễn Đức Liên, M.F

Kính thưa quý Ông Bà và Anh Chị Em! 

Nhân loại đang bên bờ vực thẳm hay đang trên đỉnh vinh quang? Thật khó để có câu trả lời cho rốt ráo. Nhưng đối với người tín hữu, tất cả đều là Tin Mừng. Chính Đức Giêsu Kitô cũng phải đi ngang qua đêm dài những đau khổ, thử thách, mới trở thành nguồn sáng vinh quang cho toàn thể nhân loại.

Hôm nay, Chúa Giêsu dừng lại, đem ánh sáng, đem niềm vui cho “một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường” (Mc 10,46) và cũng để chứng tỏ cho mọi người biết: Người là “ánh sáng bởi ánh sáng”.

Người mù suốt đời không thấy ánh sáng. Đó là nỗi khổ tâm lớn nhất. Bao nhiêu năm đi trong đêm tối, không thấy cảnh vật và con người. Cuộc sống chìm sâu vào cảnh nghèo nàn, khô khan và cô đơn. Các tương quan nhạt nhẽo và rời rạc. Ai thấu hiểu cho nỗi thống khổ lớn lao đó. Sau khi nghe biết Đức Giêsu đến gần, người mù Bartimê bạo dạn van lên tiếng cầu cứu: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,47). Nhưng càng kêu lớn tiếng, anh càng bị đám đông áp đảo: “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi” (Mc 10,48). Đám đông không cần biết đến nỗi khổ tâm của anh. Họ muốn dẹp chuyện cá nhân qua một bên; chuyện đón rước Chúa quan trọng hơn. Giữa đám đông ấy, chỉ một mình Đức Giêsu mới hiểu thấu nỗi đau của anh. Ngài thấu hiểu là bởi vì Ngài là vị thượng tế cảm thông mà chúng ta nghe trong bài đọc 2: “vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính mình cũng đầy yếu đuối” (Hr 5,2).

Với tấm lòng cảm thông lớn lao đó, Đức Giêsu đã nghe rất rõ tiếng kêu lớn tiếng của anh. Người đã truyền: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10,49). Lệnh đó loan tới anh rất nhanh. Chớp được tin đó, “anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu” (Mc 10,50). Thái độ của anh diễn tả tất cả những gì đang diễn tiến trong tâm trí và thân xác anh. Chiếc áo choàng đó có lẽ là tất cả gia sản của anhm, là bạn đường của anh. Nó vừa là áo ban ngày, vừa là chiếc mền ban đêm, đã bảo bọc chở che anh suốt bao năm trường khỏi những cảnh thiêu đốt mùa hè và giá lạnh mùa đông.

Hiểu được hoàn cảnh đầy thương tâm đó, Đức Giêsu hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,51). Cùng một câu hỏi đã được Chúa đặt ra cho rất nhiều người trong nhiều trang Tin mừng khác nhau (Mt 20,21; Ga 1,38; Ga 5,6). Thế mới biết Chúa rất tôn trọng tự do con người và muốn họ xác định rõ lập trường trước bao nhiêu sức mạnh muốn lôi kéo con người xa tầm tay Thiên Chúa. Chẳng cần suy nghĩ xa xôi, anh nói ngay nhu cầu khẩn thiết nhất. Sung sướng được Chúa đoái thương, anh biết cơ hội duy nhất đã đến: “Lạy Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10,51). Nói xong, anh rất hồi hộp, chờ đợi xem những gì sắp xảy ra cho mình.

Nhưng anh không phải đợi chờ như người mù Bethsaiđa (Mc 8,22-26); hay người mù từ bẩm sinh (Ga 9,1-41). Chúa chẳng nhắc tới đau khổ của anh chút nào: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh” (Mc 10,52). Thế nghĩa là, trước khi nhìn thấy ánh sáng mặt trời, lòng anh đã tràn ngập ánh sáng Thiên Chúa – ánh sáng đó là Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, Chúa đã dõng dạc tuyên bố với người Do thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Niềm tin của anh mù đã tìm được đối tượng đích thực. Chỉ có ánh sáng đích thực mới có khả năng đem lại sự sáng cho anh. Đây là điều mà Gioan đã tuyên bố: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).

Chính ánh sáng niềm tin đã đem lại ánh sáng cho con mắt. Ánh sáng đã mở ra trước mặt anh cả một thế giới màu sắc và đường nét. Ánh sáng đã trả lại cho anh cả một cuộc sống đầy ý nghĩa và giá trị. Bởi vậy một niềm vui đã trào dâng mãnh liệt trong con người và cuộc đời anh. Niềm vui lớn như lúc dân Chúa mới rời miền đọa đầy tăm tối. Anh chẳng khác gì “số còn sót lại của Israel” được “Đức Chúa cứu” (Gr 31,7) khỏi cảnh lưu đày Babylon mà chúng ta nghe trong bài đọc 1. Đức Giêsu đã được anh tuyên xưng cách mãnh liệt là “Con vua Đavít” (Mc 10,47-48). Niềm tin đó đã diễn tả thành lời, át cả tiếng ồn ào của đám đông và thấu đến tận lòng thương xót Chúa. 

Thấu cảm trước niềm tin mãnh liệt đó, Đức Giêsu đã ban cho anh quá điều anh mong đợi. Không những được khỏi bệnh, anh còn được diễm phúc “đi theo Người trên con đường Người đi” (Mc 10,52). Con đường Người đi là con đường đem ơn cứu độ cho nhân loại ngang qua khổ đau và thập giá. Con đường Người đi sẽ dẫn Người tới Giêrusalem để chịu chết theo thánh ý Chúa Cha. Con đường Người đi sẽ tạo nên những đường nét ngoạn mục là sự sống vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa. Chắc chắn anh sẽ đủ can đảm theo Chúa đi bất cứ nơi nào, vì đức tin là tất cả sức mạnh của anh. Anh đã trở thành môn đệ của Chúa trên hành trình loan Tin Mừng.

Thưa quý Ông Bà và Anh Chị Em!

Hơn lúc nào, nhân loại hôm nay vẫn cần những phép lạ của niềm tin. Vì còn rất nhiều người đau khổ bị bỏ quên và còn nhiều vấn đề vượt quá khả năng con người. Nhưng muốn có những phép lạ đó, trước hết, phải có niềm tin như người mù hôm nay! Không có con đường cứu thoát nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô. Tin tuyệt đối. Tin mãnh liệt trước bao nhiêu thách đố của cuộc sống. Nếu anh mù cũng tỏ ra nhút nhát, chùn bước trước bao tiếng ngăm đe, nạt nộ của đám đông chung quanh, làm sao phép lạ ánh sáng đến với anh được?

Ngày nay, biết bao người đòi quyền phá thai, quyền tự do kết hôn đồng tính... Vô thần đang ồn ào la ó lấn át niềm tin Kitô giáo. Họ muốn bịt miệng những người đang tuyên xưng niềm tin nơi Đức Giêsu. Họ thích đề cao những người vấy máu trẻ em sơ sinh. Con đường cứu thoát đã không mở ra trong những tâm hồn ấy. Chỉ có tiêu diệt và tiêu diệt. Thật là khủng khiếp! Đức Giêsu đang đến thật gần, vì Người đã nghe thấy tiếng khóc than của bao người vô tội. Nhưng đúng hơn, Người đã nghe thấy tiếng kêu gào phát xuất từ niềm tin sâu xa và nóng bỏng của bao tâm hồn tín hữu. Biết bao niềm tin đơn sơ, đơn sơ như người mù hôm nay, đã cứu thoát thế giới này khỏi chìm vào cảnh tăm tối mịt mù của các tà thuyết độc hại.

Giờ đây, chúng ta cùng nhau kiểm điểm lại niềm tin và động lực của lời cầu nguyện. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê cũng tỏ bày ước nguyện và đã được Chúa hỏi như người mù hôm nay: “anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Nhưng lời khẩn cầu của 2 anh em Gioan và Giacôbê (x. Mc 10,37) phát xuất từ một tham vọng hoàn toàn trần tục, tham vọng bá quyền. Còn người mù không hề có tham vọng nào ngoài việc xin cho được thấy ánh sáng. Vậy, lời cầu nguyện của chúng ta phát xuất từ niềm tin nào? Tin vào chính mình, tiền bạc, danh vọng hay tin vào Đức Giêsu là vị “vua hoà bình”, “vua bình an” (Hr 7,2)? Vua hòa bình cũng là “vua công chính” giống như Menkisêđê, đã được chính Thiên Chúa tuyển chọn (x. Hr 1,6). Hơn lúc nào, thế giới cần hòa bình. Nhưng hòa bình chỉ được xây dựng trên nền tảng công lý. Bởi thế, không còn danh xưng nào xứng đáng cho chúng ta kêu cầu hơn Thánh Danh Chúa Giêsu Kitô. Cũng chẳng còn danh xưng nào xứng hợp với Kitô hữu bằng danh hiệu “những người xây dựng hòa bình” (Mt 5,9). Bất công càng tràn ngập, Kitô hữu càng cần phải hiện diện để Phúc Âm hóa thế giới.