Giống như khi Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus, giờ đây, trong ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giêsu hiện ra với các ông trong Phòng Tiệc Ly và nói với các ông “Bình an cho anh em.” Đây là lúc chúng ta tưởng tượng những “lưỡi lửa” xuống trên các môn đệ, tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Hình ảnh “Lưỡi lửa” nói lên điều gì?
NGÔN NGỮ CỦA THA THỨ VÀ YÊU THƯƠNG
(Ga 20,19-23)
KÍNH THƯA CỘNG ĐOÀN!
Vào ngày cuối cùng của Mùa Phục Sinh, cũng là ngày kỷ niệm sự khởi đầu sứ mạng của Giáo hội đối với thế giới, các bài đọc kể cho chúng ta biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, để “làm cho hết thảy chư dân (1) nhận biết Thiên Chúa và (2) liên kết mọi ngôn ngữ khác biệt lại, (3) để họ tuyên xưng cùng một đức tin” (Kinh Tiền tụng).
Giống như khi Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus, giờ đây, trong ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giêsu hiện ra với các ông trong Phòng Tiệc Ly và nói với các ông “Bình an cho anh em.” Đây là lúc chúng ta tưởng tượng những “lưỡi lửa” xuống trên các môn đệ, tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Hình ảnh “Lưỡi lửa” nói lên điều gì?
Trước hết, chúng ta hãy nghĩ đến lưỡi lửa đại diện cho nhận thức mới về Thiên Chúa. Chắc hẳn, đó là thứ lửa đã bùng cháy trong lòng các môn đệ trên đường Emmau. Lòng các môn đệ bừng cháy lên khi Lời Chúa đã được ứng nghiệm. Đó là một sự hiểu biết sâu sắc và trọn vẹn hơn về Thiên Chúa. Do đó, các môn đệ đã vững tin hơn để có thể giải thích Lời Chúa và xác tín trọn vẹn căn tính của Đức Giêsu là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Nhận thức mới về Thiên Chúa đưa các tông đồ đến với sứ vụ. Thật vậy, trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su thổi hơi vào các môn đệ để truyền cho các ông một sức sống và một sứ mạng mới. Để làm gì vậy? Thưa! Vì loan báo Tin Mừng là công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa, do đó các tông đồ lãnh nhận một nhiệm vụ mà tự sức riêng của các ngài không thể kham nổi, nên họ cần đến sinh khí của Chúa. Kể từ đó, các Tông đồ, và giờ đây có cả chúng ta nữa, được kêu gọi loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất và làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).
Thứ đến, chúng ta hãy nghĩ đến những lưỡi lửa đại diện cho Ân huệ đầu tiên của Thánh Thần ban cho các Tông Đồ. Thật vậy, các Tông Đồ được ơn diễn tả về Thiên Chúa, về Đức Giê-su cho người khác hiểu được, dưới ánh sáng Phục Sinh của Đức Ki-tô. Như bài đọc I (Cv 2,1-11) đã mô tả, lưỡi lửa là lời nói của các Tông Đồ sau này; lửa vừa để tẩy sạch tâm trí người nghe khỏi mọi tư tưởng sai lầm mà nghe Lời Chúa, vừa để hun đúc trong tâm hồn người nghe lòng tin yêu Chúa. Các Tông Đồ giảng dạy để khơi dậy đức tin cho người nghe để họ tuyên xưng cùng một đức tin. Nhờ đó mà những kẻ tin được ơn tha tội. Thật vậy, mỗi khi đi xưng tội, chúng ta đều được lắng nghe lời sau: “et Spiritum Sanctum effudit in remissionem peccatorum” – Và [Thiên Chúa] đã ban Thánh Thần để tha tội.” Đó là một phần của công thức xá giải trong tòa giải tội. Và trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy câu Kinh Thánh làm nền tảng cho những lời này khi các môn đệ được sai đi: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23).
Sau cùng, chúng ta hãy nghĩ đến những lưỡi lửa đại diện cho việc liên kết mọi ngôn ngữ khác biệt lại. Cũng trong bài đọc I (Cv 2,1-11), chúng ta đã nghe các môn đệ bây giờ có thể nói các thứ tiếng khác nhau. Điều đang được đề cập về ơn ngôn ngữ là sự đảo ngược của những gì đã xảy ra tại Tháp Ba-ben. Dường như chúng ta ít nhiều liên tưởng đến nội dung chương 11 Sách Sáng Thế, trong đó nói rằng “Thuở ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau” (St 11,1). Nhưng sau khi loài người cố gắng xây dựng một tòa tháp để chạm tới thiên đàng ở nơi được biết đến ngày nay là một khu vực phía nam Baghdad (Iraq), Chúa đã chia cắt họ và làm xáo trộn ngôn ngữ của họ. Tác giả Sáng Thế dùng lối chơi chữ bằng cách nối kết “BäBel” với động từ “Bälal” trong tiếng Hip-ri, có nghĩa là lẫn lộn, làm cho xáo trộn. Như vậy, Ba-ben là “tháp hỗn loạn.” Do đó, ơn ngôn ngữ được ban cho các Tông đồ làm cho người ta được hiệp nhất thay vì chia rẽ, làm cho người ta bước vào trật tự thay vì hỗn loạn (x. St 11,1-9). Có thể nói rằng thứ ngôn ngữ liên kết mọi ngôn ngữ khác biệt lại ắt hẳn phải là ngôn ngữ của sự tha thứ và yêu thương. Bởi lẽ “[Thiên Chúa] đã ban Thánh Thần để tha tội” và “Tình yêu Thiên Chúa tràn đầy trên tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ngự trong lòng chúng ta” (Ca Nhập lễ).
Thật vậy, nếu chúng ta tha thứ cho nhau, thì chúng ta đang thực hiện một hành động vượt qua mọi thời, mọi nơi và mọi nền văn hóa. Hành động tha thứ và yêu thương còn trở nên một “lời chứng” mời gọi tha nhân hãy xem chúng ta như anh-chị-em trong đại gia đình nhân loại. Bên cạnh đó, chúng ta là những người bước theo Đức Ki-tô. Dựa theo lối diễn tả của Thánh Tô-ma A-qui-nô: “Verbum spirans Amorem - Lời phát xuất/thở ra Tình yêu.” Do vậy, Ki-tô hữu giờ đây sẽ nói thứ ngôn ngữ tình yêu. Ngôn ngữ ấy tạo ra tình huynh đệ và sự hiệp thông nơi chúng ta thay vì chia rẽ; thúc đẩy sự hiểu biết hơn là oán giận; tình yêu hơn là thù hận và do đó, thúc đẩy sự sống hơn là cái chết. Trong dòng suy tư đó, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã nhấn mạnh: “Không có tình yêu làm nền tảng của chúng ta, tất cả những thứ còn lại đều vô ích. Bởi lẽ, Thần Khí tình yêu tuôn đổ tình yêu vào tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy được yêu và dạy chúng ta cách yêu.” Thật vậy, Chúa Thánh Thần là “trường động lực” của đời sống của chúng ta, Đấng không ngừng thúc đẩy chúng ta nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
Kính thưa cộng đoàn,
Nhân loại tự cổ chí kim vẫn đang trong tình cảnh chia rẽ: “Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!” (Nguyễn Du, Truyện Kiều), bởi đó mà mọi dân nước vẫn đang được mời gọi tham dự Lễ Ngũ Tuần để hợp thành một dân tộc của một Thiên Chúa duy nhất. Như đã nói, đặc điểm của nhân loại này là có một thứ ngôn ngữ mới ràng buộc họ, ngôn ngữ tha thứ và yêu thương, để họ nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, ngõ hầu tuyên xưng cùng một đức tin. Thật vậy, không thể yêu thương nếu không có sự hiệp nhất.
Do đó, cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trước hết là cử hành sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, như lời bài đọc II (1 Cr 12,3b-7.12-13) hôm nay diễn tả: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13).
Bên cạnh đó, tuy thường tham dự Thánh lễ cùng nhau, nhưng chúng ta bị chia rẽ theo nghĩa là chúng ta nhìn thấy nhau, nhưng chúng ta không thực sự biết nhau. Có lẽ một số người trong chúng ta biết rất rõ về nhau, nhưng rất nhiều người ở đây, kể cả người nói, coi người bên cạnh mình như là người mới?! Nếu vậy thì chúng ta khó có thể “trở nên một thân thể” trong Đức Kitô, khó có thể cất lên ngôn ngữ của tình yêu và tha thứ. Qua Thánh lễ hôm nay, chúng ta xác tín rằng Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận biết và yêu mến Thiên Chúa cách đích thực, từ đó cũng nhận biết và yêu thương anh em mình cách xứng hợp. Vì ngày hôm nay là Lễ Hiện Xuống, lễ cử hành Sự Hiệp Nhất của Giáo Hội, nên hôm nay chúng ta hãy làm một thao tác nhỏ để kiến tạo sự hiệp nhất trong cộng đoàn và trong Giáo hội. Hãy nhớ tên của người mà chúng ta không thể hiệp nhất với họ trong tư tưởng, lời nói hay hành động, và cầu nguyện cho họ và cho cả chúng ta nữa, để chúng ta can đảm tha thứ cho nhau, và nhận được Quà tặng mà Chúa Thánh Thần khứng ban cho chúng ta.
Sau hết, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các nạn nhân của cuộc chiến tranh giữa Ucraina và Nga, cho những người đang rơi vào cảnh lầm than, cho những ai đang đánh mất niềm hy vọng trên thế giới, để họ được Chúa Thánh Thần là “Đấng ủi an tuyệt diệu, Vị thượng khách của tâm hồn” (Ca Tiếp Liên), ban niềm tin, tình yêu và hy vọng, là những điều rất cần thiết trong thời đại chúng ta ngày nay. “Veni, Creator Spiritus.” Amen.
Tu sĩ Giuse Mai Thanh Hoàn, M.F.