Thưa cộng đoàn, Chúa Giêsu đã khóc thương Ladarô trước phần mộ của anh, và người Do Thái coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương anh cách riêng. Nhưng trong sâu thẳm, Ngài khóc thương vì thấy thần chết đang xâm chiếm và khống chế con người. Chúa khóc vì chính Ladarô sẽ là cớ vấp phạm cho người Do Thái. Chúa khóc vì sự ngoan cố, cứng lòng của người Pharisiêu khi phủ nhận uy quyền Thiên Chúa của Ngài. Chúa khóc vì lòng tin yếu kém của Mátta và Maria, và đó là những lý do đã khiến Chúa khóc.

KHÓC NHƯ CHÚA GIÊSU KHÓC

(Ed 37,12-14; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45)

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!

Trong ba năm giảng dạy, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ cho kẻ chết sống lại như: Chúa cho 1 bé gái, con của ông Giairô, vừa mới chết được sống lại. Ngài cho người thanh niên, con của bà góa thành Naim, đang khiêng đi chôn được sống lại. Hơn hết, Ngài cho Ladarô, em của Mátta và Maria ở làng Bêtania, đã an táng trong mồ bốn ngày, được sống lại mà chúng ta vừa nghe. 

Thật vậy, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho kẻ chết sống lại với nhiều ý nghĩa; Ngài minh chứng Ngài là Đấng hằng sống và là nguồn sống, đã tạo dựng và có quyền trên sự sống ấy. Chính Ngài củng cố niềm tin và hy vọng cho chúng ta vào sự sống đời sau. Bởi lẽ, đã là con người thì ai cũng phải chết, đó là điều tất yếu theo quy luật của tự nhiên. Nhưng chết không phải là hết, mà là bắt đầu sự sống mới, một sự sống thật dồi dào cho cả linh hồn lẫn thân xác trong ngày sau hết. Bởi thế, trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Ngài đã nhiều lần mạc khải về cái chết và sự sống lại hiển vinh của Ngài. Và bài Tin Mừng hôm nay lại có rất nhiều điểm đáng lưu tâm mà chúng ta cần phải suy gẫm, cần phải sống, cũng như là để chuẩn bị tâm hồn mình cho thật xứng đáng, thật tốt đẹp trong ngày đón mừng đại lễ Chúa Phục Sinh. Với ý nghĩa đó, con xin chia sẻ với cộng đoàn một điểm nhỏ trong bài Tin Mừng, đó là hình ảnh chúa Giêsu khóc. 

Thưa cộng đoàn, Chúa Giêsu đã khóc thương Ladarô trước phần mộ của anh, và người Do Thái coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương anh cách riêng. Nhưng trong sâu thẳm, Ngài khóc thương vì thấy thần chết đang xâm chiếm và khống chế con người. Chúa khóc vì chính Ladarô sẽ là cớ vấp phạm cho người Do Thái. Chúa khóc vì sự ngoan cố, cứng lòng của người Pharisiêu khi phủ nhận uy quyền Thiên Chúa của Ngài. Chúa khóc vì lòng tin yếu kém của Mátta và Maria, và đó là những lý do đã khiến Chúa khóc.

 Còn chúng ta có khóc không? Nếu khóc, chúng ta khóc cho ai và vì lý do gì? Quả thật, khi mới sinh ra, ai trong chúng ta cũng đều khóc cả, và trải dài suốt cuộc đời mình, trong những vấp ngã, trong những biến cố, đã không ít lần làm chúng ta rơi những giọt lệ đầy vơi. Trong kinh Lạy Nữ Vương có cụm từ “vallum lacrimarum”, diễn tả thế gian là thung lũng đầy nước mắt. Sở dĩ chúng ta khóc là vì chúng ta là người có cảm xúc, mà cảm xúc ấy thường được diễn tả trong những lỗi tội hay những đau khổ của đời mình. Có bao nhiêu khổ đau thì có bấy nhiêu tiếng khóc: Tiếng khóc âu lo-nghèo đói, tiếng khóc vô ơn-phụ bạc, tiếng khóc cô đơn-lạc lõng, tiếng khóc mất mát-chia ly, tiếng khóc được che kín bằng tiếng cười giữa đám đông, tiếng khóc có mặt ở khắp nơi và được biểu lộ trong nhiều trạng thái khác nhau.

Một ví dụ điển hình là, khi một người thân yêu qua đời, chúng ta ngậm ngùi thương khóc nuối tiếc, hoặc cũng có khi ta khóc thương cho mình là kẻ ở lại, ta cảm thấy cô đơn bơ vơ không chỗ tựa nương. Dĩ nhiên, bên cạnh đó cũng không thiếu những con người trong những trường hợp, những hoàn cảnh cụ thể nào đó, họ khóc thương trong sự giả tạo, và đó là những giọt nước mắt cá sấu. Nhưng cũng không thiếu những người khóc mà nước mắt của họ rất có giá trị như mẹ cha khóc thương con cái mình. Thánh Mônica đã khóc rất nhiều để cầu nguyện cho sự hoán cải của con mình là thánh Augustinô. Ở bài đọc I, trích sách Êdêkien, chính Thiên Chúa cũng đã biểu lộ trạng thái khóc của Ngài qua việc Ngài đưa dân Israel lên khỏi huyệt và đem họ về đất hứa đó sao.  

Nhìn vào thực tại hôm nay, có rất nhiều người dường như ít khóc đi, thậm chí họ còn không khóc được nữa. Họ không khóc được vì trái tim chai đá của mình, sống ù lì trong sự hưởng thụ của chủ nghĩa cá nhân. Giống như hình ảnh ông phú hộ giàu có trong “dụ ngôn người phú hộ và Ladarô nghèo khó” của tác giả Tin Mừng Luca. Đối với những người sống theo chủ nghĩa duy vật chất, họ mặc kệ với mọi thứ xung quanh, ai có ra sao thì ra miễn không can dự gì đến mình, miễn là bản thân được vui hưởng lạc thú là được. Lòng trắc ẩn của họ bị khóa chặt lại bởi những cái tôi cao ngạo, họ không thể khóc giống như Chúa Giêsu khóc nữa.

  Phần chúng ta muốn khóc gì thì khóc, điều quan trọng nhất là chúng ta hãy khóc vì tội lỗi của mình. Đó là những giọt nước mắt rất đáng trân quí, rất hữu tình và hợp lý. Những giọt nước mắt ăn năn hối hận ấy làm nhòe đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn mình lên. Giống như thánh Phêrô đã khóc trong sự hối hận vì đã chối Thầy mình. Thật vậy, những giọt nước mắt sám hối khi biết mình lầm lỗi bao giờ cũng có giá trị cứu rỗi cả. Bởi vì những lầm lỗi và yếu đuối ấy đã gây ra không ít thương tích cho linh hồn mình. Những vết thương đó chỉ được xoa dịu và tái sinh bằng những giọt nước mắt ăn năn trong sự thúc đẩy của Thần Khí mà thôi. Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô có nói: “Anh em bị Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (Rm 8,9). Vì thế, có Thần Khí, chúng ta hãy mạnh dạn khóc thương tha nhân giống như Chúa Giêsu đã khóc. 

Quả thực, bên kia mọi tội lỗi, tình yêu thương và lòng tha thứ của Chúa vẫn khoả lấp được sự yếu hèn của chúng ta. Chỉ có tình yêu thương và lòng tha thứ của Chúa mới có thể khơi dậy nơi lòng chúng ta những giọt nước mắt ăn năn sám hối đích thực. Ước gì mỗi người chúng ta cũng đều biết khóc về tội lỗi đời mình, để đón nhận ơn tha thứ và tình thương của Chúa trong những ngày chay thánh còn lại này. Amen. 

Tu sĩ Giuse Nguyễn Vũ Long