Ba nhà chiêm tinh như là nhóm dân ngoại, là những người thường bị người Do Thái khinh rẻ, tránh tiếp xúc. Họ là những người ở xa nơi Hài Nhi Giêsu mới sinh. Thế nhưng, khi biết Vua dân Do Thái sinh ra được tỏ lộ qua ánh sao xuất hiện, họ mau mắn lên đường để tìm gặp Hài Nhi Giêsu mà bái lạy.
KHOẢNG CÁCH GẦN XA
(Mt 2, 1-12)
Kính thưa Quý ông bà và anh chị em!
Người đời thường nói: “Tuy xa mà gần, tuy gần mà xa”. Ý muốn nói rằng: Tuy con người ở khoảng cách xa nhau về địa lý, nhưng nếu người ta quan tâm, để ý, yêu thương nhau thì khoảng cách đó không còn xa nữa nhưng thật gần gũi. Ngược lại, nếu khoảng cách địa lý giữa hai người gần gũi hay kế bên, nhưng họ không quan tâm, để ý hay thờ ơ thì khoảng cách ấy xa nhau như cách biệt phương trời. Như vậy, khoảng cách xa gần không phải là khoảng cách địa lý nhưng là khoảng cách ở tấm lòng con người dành cho nhau. Bài Tin mừng Matthew hôm nay cho thấy vị trí, khoảng cách địa lý và khoảng cách lòng đó.
Trong bài Tin mừng, ta thấy khoảng cách địa lý, các nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem và rồi từ Giêrusalem đến Bêlem rất xa so với những người nếu đi từ Giêrusalem tới Bêlem. Khung cảnh cho thấy sự đối nghịch giữa hai nhóm người: Một bên là dân ngoại, một bên là dân Do Thái; một bên ở rất xa, một bên ở rất gần. Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho mỗi người trong từng trường hợp, hoàn cảnh khác nhau, Người không chỉ mặc khải cho dân Do Thái mà còn cả dân ngoại nữa: qua ánh sao các nhà chiêm tinh nhận biết Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra; còn dân Do Thái được mặc khải qua hành trình lịch sử, qua các ngôn sứ, qua Kinh Thánh để nhận biết Đấng Mêsia đến cứu dân mình. Khi được hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê” (Mt 2, 5). Thật thế, các thượng tế và kinh sư nằm lòng Kinh Thánh, biết rõ nơi vị lãnh tụ của mình sẽ ra đời. Được Thiên Chúa tỏ mình ra cho tất cả, nhưng phản ứng của mỗi nhóm khác nhau: một nhóm chủ động ra đi tìm kiếm, nhóm kia thờ ơ, thụ động; một bên thì đón nhận, một bên thì chồi từ; “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa”.
Ba nhà chiêm tinh như là nhóm dân ngoại, là những người thường bị người Do Thái khinh rẻ, tránh tiếp xúc. Họ là những người ở xa nơi Hài Nhi Giêsu mới sinh. Thế nhưng, khi biết Vua dân Do Thái sinh ra được tỏ lộ qua ánh sao xuất hiện, họ mau mắn lên đường để tìm gặp Hài Nhi Giêsu mà bái lạy. Điều gì hay động lực nào thôi thúc khiến họ lên đường tìm kiếm, mặc cho đường dài và khó khăn hiểm nguy vay quanh? Thưa, họ tìm kiếm vì xác tín một vị Vua mới sinh đáng cho họ tôn kính, thờ lạy. Như lời họ nói: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2). Họ lần mò trong đêm tối, nên khi thấy ngôi sao xuất hiện lần nữa, họ mừng rỡ vô cùng. Khi đến nơi mà ngôi sao dẫn đường, mặc dù Hài Nhi bé nhỏ, Vua của Do Thái nằm trong máng cỏ, của hang bò lừa nhưng họ vẫn cung kính bái lạy Người và dâng những lễ phẩm mình mang theo. Qua đó, cho thấy họ thể hiện lòng tin và lòng tôn kính Hài Nhi Giêsu là vị Vua chăn dắt Israel. Họ là những người ở xa, xa về địa lý nhưng vượt những chặng đường dài để đến thật gần Hài Nhi Giêsu, họ ở xa vì họ bị xem là những người dân ngoại, nhưng biết tìm kiếm ánh sáng của ngôi sao để đến thật gần, gần về khoảng cách, gần về tấm lòng, gần với ánh sáng, gần với ơn cứu độ.
Trái lại, những người tại thành Giêrusalem thì sao? Họ vẫn thờ ơ khi các nhà chiêm tinh cho biết tin Đức Vua Do Thái mới sinh ra, nhưng không một ai đi theo các vị để tìm kiếm. Từ Giêrusalem đến Bêlem khoảng 8 km nếu đem so sánh khoảng cách từ Phương Đông đến Bêlem thì thấy khoảng cách lòng người mới là yếu tố quyết định. Như vậy, những người được xem là ở gần, rất gần cả về không gian và thời gian lại là những người ở xa, xa vì không quan tâm, không để ý, không đón nhận mặc khải Hài Nhi Giêsu là Đấng cứu tinh.
Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng thế, vì yêu thương, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần để cứu độ chúng ta, cho chúng ta được tái sinh làm con cái Chúa. Khi được làm con Chúa, liệu rằng tất cả chúng ta đều được cứu độ chăng, nếu chúng ta sống xa Chúa, thờ ơ thụ động, không đón nhận mặc khải của Ngài? Liệu rằng chúng ta thật sự sống gần Chúa chưa? Nếu chúng ta chỉ đi lễ, đọc kinh nhưng tâm và trí ở nơi khác? Bởi lẽ, những người trong thành Giêrusalem xưa, “ tuy gần nhưng xa”, gần về khoảng cách địa lý nhưng xa tấm lòng, xa lòng mến yêu. Ở kề bên Chúa nhưng lòng lo lắng, vướng bận nhiều thứ và biết bao dự định, không có chỗ dành cho Chúa. Như thế, tuy kề bên nhưng chúng ta đang xa Chúa. Hơn nữa, việc ở gần Thiên Chúa, gần với ơn cứu độ không chỉ giới hạn trong nhà thờ qua những lễ nghi mà thôi nhưng còn sinh hoa trái qua việc sống bác ái, mến Chúa yêu người trong đời sống thường nhật. Thật thế, Chúa Giêsu khẳng định: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21)
Ước mong rằng, qua bài Tin mừng hôm nay, Thiên Chúa đã tỏ mình ra để mọi người nhận ra chính Hài Nhi Giêsu là Đấng cứu độ trần gian. Bởi thế, chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Ngài để được cứu độ và lan toả niềm vui ơn cứu độ cho mọi người xung quanh bằng cách sống theo Lời Chúa được thể hiện qua lối sống chứng tá của chúng ta hằng ngày. Như thế, chúng ta không còn sống xa nhưng sống gần Chúa. Đừng để lối sống của chúng ta “tuy gần mà xa”.
Tu sĩ Phê rô Lê Hữu Ngọc, M.F.